Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2016, những nội dung mới của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 cơ bản đã khắc phục được những tồn tại, vướng mắc của Bộ luật tố tụng dân sự cũ trong thủ tục, trình tự tiến hành tố tụng để giải quyết các vụ việc dân sự trên thực tế. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trong thời gian qua đã phát sinh nhiều vấn đề vướng mắc từ thực tiễn công việc tại Tòa án, cần được sự nghiên cứu, trao đổi và có giải pháp khắc phục. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi khái quát các quy định pháp luật tố tụng và trao đổi một số vấn đề về giải quyết các vụ án Hôn nhân và gia đình qua thực tiễn công tác giải quyết, xét xử các vụ việc liên quan tại Tòa án nhân dân.
I. Khái lược những quy định mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về thụ lý, giải quyết vụ việc Hôn nhân và gia đình sơ thẩm tại Tòa án
1. Khái lược những điểm mới tại các quy định chung của Bộ luật tố tụng dân sự
Những quy định chung của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 gồm 11 Chương với 185 điều luật. So với Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa đổi, bổ sung năm 2011 (sau đây gọi chung là Bộ luật tố tụng dân sự cũ) thì Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 giữ nguyên 7 điều luật, bổ sung 20 điều luật mới, còn lại là các điều luật cũ được sửa đổi, bổ sung. Đây là các quy định ở phần chung nên được áp dụng cho tất cả các loại vụ, việc dân sự theo nghĩa rộng (dân sự, kinh doanh thương mại, Hộ nhân và gia đình, Lao động). Những điều luật được sửa đổi, bổ sung trong Bộ luật tố tụng dân sự 2015 so với quy định cũ có những sự thay đổi với mức độ nội dung, phạm vi điều chỉnh khác nhau; có nhiều điều luật được sửa đổi, bổ sung theo hướng thay đổi cả ý nghĩa, nội hàm điều chỉnh, nhưng cũng có những điều luật chỉ thay đổi, bổ sung đơn thuần về từ ngữ, số liệu. Trong số 20 điều luật mới quy định, có 02 điều luật quy định liên quan đến thẩm quyền của các Tòa chuyên trách thuộc Tòa án địa phương (quy định mới theo thay đổi của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014); 03 điều luật quy định về giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng; 02 điều luật quy định về người tiến hành tố tụng (bổ sung Thẩm tra viên ở Tòa án và Kiểm tra viên ở Viện kiểm sát); 01 điều luật về thủ tục rút gọn trong giải quyết việc dân sự; 03 điều luật về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; 08 điều luật liên quan đến chi phí tố tụng và 01 điều luật về thủ tục tống đạt.
Những thay đổi trong phần các quy định chung của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 tập trung vào các nội dung liên quan đến các chế định về nguyên tắc, thẩm quyền, quyền và nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng, chứng minh và chứng cứ, thời hiệu, thời hạn, án phí, lệ phí Tòa án. Về phương diện tìm hiểu, nghiên cứu, những điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã được các cá nhân, tổ chức làm rõ trên các số Tạp chí Tòa án trước đây. Do đó, ở phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ khái lược những điểm mới được quy định trong phần chung của Bộ luật tố tụng dân sự có liên quan trực tiếp, phải chú ý và xử lý thường xuyên trong quá trình giải quyết, xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình tại Tòa án nhân dân. Theo đó, liên quan đến việc giải quyết, xét xử vụ án Hôn nhân và gia đình, có những thay đổi ở phần chung trong Bộ luật dân sự năm 2015 cần chú ý như sau:
1.1. Về thẩm quyền của Tòa án nhân dân:
Quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án so với Điều 27 Bộ luật tố tụng dân sự cũ. Trong đó, bổ sung quan hệ tranh chấp Chia tài sản sau khi ly hôn, Tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, Tranh chấp về nuôi con, chia tài sản của nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn hoặc khi hủy kết hôn trái pháp luật; đồng thời điều luật cũng xác định rõ khi có quy định của pháp luật khác xác định thẩm quyền giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc cơ quan khác thì Tòa án không thụ lý, giải quyết.
Quy định tại Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung những yêu cầu về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án so với Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự cũ. Trong đó, bổ sung yêu cầu về Công nhận việc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ theo quy định từ Điều 92 đến Điều 102 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án; yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định tại Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; yêu cầu xác định cha mẹ cho con hoặc con cho cha mẹ theo quy định từ Điều 89 đến Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; đồng thời điều luật cũng xác định rõ khi có quy định của pháp luật khác xác định thẩm quyền giải quyết các việc hôn nhân và gia đình thuộc cơ quan khác thì Tòa án không thụ lý, giải quyết.
Về thẩm quyền của Tòa án nhân dân: So với Điều 33 Bộ luật tố tụng dân sự cũ, Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện nơi cư trú của công dân Việt Nam hủy việc kết hôn trái pháp luật, giải quyết việc ly hôn, các tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, cha mẹ và con, về nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi và giám hộ giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cũng cư trú ở khu vực biên giới Việt Nam theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự và các quy định khác của pháp luật Việt Nam. Ngoài ra, cần chú ý quy định mới bổ sung tại khoản 2 Điều 36 và khoản 2 Điều 38 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 về thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên tại Tòa án nhân dân địa phương.
Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ: Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung nội dung về trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn (theo quy định tại Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014) thì Tòa án nơi người con cư trú có thẩm quyền giải quyết; bổ sung nội dung về Tòa án nơi người mang thai hộ cư trú, làm việc có thẩm quyền giải quyết yêu cầu liên quan đến việc mang thai hộ; Tòa án nơi cư trú, làm việc của một trong những người có tài sản chung có thẩm quyền giải quyết yêu cầu công nhận thỏa thuận chấm dứt hiệu lực của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân đã được thực hiện theo bản án, quyết định của Tòa án; Tòa án nơi cư trú, làm việc của người yêu cầu có thẩm quyền giải quyết yêu cầu tuyên bố vô hiệu thỏa thuận về chế độ tài sản của vợ chồng, xác định cha mẹ cho con hoặc con cho cha mẹ. Ngoài ra, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng bổ sung quy định mới là “trường hợp vụ án dân sự đã được Tòa án thụ lý và đang giải quyết theo đúng quy định của Bộ luật này về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ thì phải được Tòa án đó tiếp tục gải quyết mặc dù trong quá trình giải quyết vụ án có sự thay đổi nơi cư trú, trụ sở hoặc địa chỉ giao dịch của đương sự”.
1.2. Quy định về thành phần giải quyết vụ việc dân sự:
Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự bổ sung nội dung cần chú ý kỹ khi lập thủ tục và tiến hành xét xử vụ án hôn nhân và gia đình là “Đối với vụ án có đương sự là người chưa thành niên thì phải có Hội thẩm nhân dân là người đã hoặc đang công tác tại Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em”. Ngoài ra, trong phần này, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 còn quy định mới 01 điều luật (Điều 65) về việc xét xử vụ án dân sự theo thủ tục rút gọn với thành phần người tiến hành tố tụng chỉ có Thẩm phán, Kiểm sát viên và Thư ký Tòa án.
1.3. Quy định về người tham gia tố tụng:
Có nhiều thay đổi liên quan đến chế định này trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, các nội dung được thay đổi xoay quanh những yêu cầu về giải thích nội hàm, phạm vi để xác định người tham gia tố tụng, quyền, nghĩa vụ của người tham gia tố tụng và trình tự, thủ tục xác lập mối quan hệ tố tụng giữa người tham gia tố tụng với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự theo nghĩa rộng. Đối với vụ việc Hôn nhân và gia đình, ở phạm vi quy định này, cần chú ý nội dung bổ sung về người đại diện theo quy định tại Điều 85 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là: Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo quy định tại khoản 2 Điều 51 của Luật Hôn nhân và gia đình thì họ là người đại diện. Ngoài ra, cũng cần lưu ý quy định về chỉ định người đại diện trong tố tụng dân sự tại khoản 1 Điều 88 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, theo đó, trong các vụ án hôn nhân và gia đình, khi tiến hành tố tụng, nếu có đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự…mà không có người đại diện hoặc người đại diện của họ thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 87 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án phải chỉ định người đại diện để tham gia tố tụng.
1.4. Quy định về chứng minh và chứng cứ: Ở Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nhiều thay đổi ở phần này đã tác động tích cực đến tiến độ, chất lượng việc thu thập chứng cứ và quá trình chứng minh của người tham gia tố tụng và của Tòa án trong giải quyết vụ án dân sự theo nghĩa rộng. Khi áp dụng chế định chứng minh và chứng cứ của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 trong việc giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình, chúng ta cần bám sát các nội dung chính liên quan đến việc xác định chứng cứ, trình tự, thẩm quyền, thủ tục thu thập chứng cứ và biện pháp, quá trình chứng minh được thể hiện tại Chương VII. Trong đó, theo chúng tôi, có một số vấn đề cần được quan tâm thường xuyên, đó là: (1)Tòa án hướng dẫn cho đương sự thực hiện quyền yêu cầu cơ quan tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu chứng cứ (đây là quy định mới bổ sung tại Điều 106 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015), trong đó, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp tài liệu chứng cứ cho đương sự trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; quy định này mở rộng quyền của đương sự, làm thay đổi tư duy và cách làm của các cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ, tài liệu; bởi theo nếp nghĩ chung của cán bộ, công chức, nhân viên tại các cơ quan này thì “việc đương sự đề nghị cơ quan, tổ chức và nhất là cơ quan tổ chức quản lý hành chính nhà nước cung cấp chứng cứ cho đương sự là không đúng”!. Chỉ khi nào Tòa án có văn bản đề nghị cung cấp thì họ mới thực hiện. (2) Quy định về công bố và sử dụng tài liệu chứng cứ tại Điều 109 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có sửa đổi, bổ sung so với quy định tương ứng tại Bộ luật tố tụng dân sự cũ. Trong đó, khi giải quyết các vụ việc hôn nhân và gia đình, chúng ta cần chú ý đến quy định về việc Tòa án không được công khai nội dung tài liệu chứng cứ có liên quan đến bí mật cá nhân, bí mật gia đình theo yêu cầu chính đáng của đương sự. Đây là quy định liên quan đến những vấn đề nhạy cảm trong vụ án hôn nhân và gia đình, nhất là các vấn đề liên quan đến tình cảm vợ chồng, nguyên nhân ly hôn, mâu thuẫn đời sống vợ chồng, những góc khuất trong đời sống hôn nhân mà đương sự tự khai, trình bày tại Tòa án. Trong khi đó, thực tiễn giải quyết vụ án cho thấy, ở mức độ nào là bí mật, ở mức độ nào là được công khai vẫn còn quy định chung chung, khó phân biệt ranh giới. Điều này đặt ra yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng là phải cân nhắc kỹ lưỡng phương pháp, cách thức, phạm vi, mức độ thu thập, công bố tài liệu, chứng cứ trong vụ án hôn nhân và gia đình, vừa đảm bảo giải quyết vụ án đúng pháp luật, vừa tránh những sai sót gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp, uy tín, danh dự của các đương sự.
1.5. Quy định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời: Trong phần này, khi giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình, ngoài các vấn đề được lưu ý chung nhất trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc vụ án dân sự theo nghĩa rộng, chúng ta cần chú ý một biện pháp khẩn cấp tạm thời mới được bổ sung có liên quan trực tiếp đến vụ việc hôn nhân và gia đình là biện pháp Cấm tiếp xúc với nạn nhân bạo lực gia đình quy định tại khoản 15 Điều 114 và Điều 129 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.
1.6. Quy định về án phí, lệ phí của Tòa án: Liên quan đến việc giải quyết, xét xử vụ án hôn nhân và gia đình, các quy định về án phí tại Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 không có nhiều thay đổi so với Bộ luật tố tụng dân sự cũ và việc điều chỉnh vấn đề án phí đã được quy định cụ thể tại Nghị quyết 326/2016/NQ – UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có bổ sung 02 nội dung mới về nghĩa vụ nộp tiền lệ phí Tòa án và chịu lệ phí Tòa án đối với yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn, được quy định tại khoản 2 Điều 146 và khoản 2 Điều 149 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Ngoài ra, khi giải quyết vụ án hôn nhân có liên quan đến ủy thác tư pháp nước ngoài thì cần quan tâm kỹ các quy định tại Điều 153 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (điều luật mới) về nghĩa vụ chịu chi phí ủy thác tư pháp ra nước ngoài; khi tiến hành thủ tục xem xét, thẩm định, định giá tài sản trong vụ việc hôn nhân và gia đình thì cần bám sát quy định tại Điều 157 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
2. Khái lược những điểm mới trong phần thủ tục giải quyết vụ án sơ thẩm tại Tòa án
2.1. Quy định về khởi kiện và thụ lý vụ án
Về quyền khởi kiện trong vụ án hôn nhân và gia đình, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung quy định tại khoản 5 Điều 187 về nội dung “Cá nhân có quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình”. Quy định này đảm bảo quyền khởi kiện xin ly hôn của cha, mẹ, người thân thích của một bên trong quan hệ hôn nhân bị tâm thần hoặc bị bệnh khác làm mất khả năng nhận thức, điều khiển hành vi theo quy định tại khoản 2 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình; đảm bảo quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn của “người thân thích” theo điểm a khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình; đảm bảo quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành nước của “người thân thích” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 86 Luật Hôn nhân và gia đình; đảm bảo quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con của những người là cha, mẹ, con, người giám hộ theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 102 Luật Hôn nhân và gia đình; đảm bảo quyền khởi kiện yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng của “người thân thích” theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 119 Luật Hôn nhân và gia đình.
2.2. Quy định về thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử: Bên cạnh những điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử vụ án dân sự theo nghĩa rộng, các quy định ở phần này liên quan đến vụ án hôn nhân và gia đình có những điểm mới cần chú ý như sau:
Quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về nguyên tắc và thủ tục hòa giải có một số điểm mới quan trọng. Trong đó, quy định về nguyên tắc tiến hành hòa giải tại Điều 205 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung trường hợp không phải hòa giải đối với vụ án được giải quyết theo thủ tục rút gọn (quy định mới tại phần thứ tư của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015); có nghĩa rằng, trường hợp Tòa án quyết định giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình theo thủ tục rút gọn thì không cần phải tiến hành phiên hòa giải theo thủ tục thông thường của vụ án dân sự theo nghĩa rộng. Khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung nội dung liên quan đến việc thu thập chứng cứ, thông tin và việc công khai chứng cứ đối với vụ án hôn nhân và gia đình. Cụ thể quy định này xác định “đối với vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải giữa các đương sự thì Thẩm phán, Thẩm tra viên được Chánh án Tòa án phân công phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp. Khi xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án.
Đối với vụ án tranh chấp về nuôi con sau ly hôn hoăc thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn, Thẩm phán phải lấy ý kiến của con chưa thành niên tử đủ 7 tuổi trở lên, trường hợp cần thiết có thể mời đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em chứng kiến, tham gia ý kiến. Việc lấy ý kiến của con chưa thành niên và các thủ tục tố tụng khác đối với người chưa thành niên phải đảm bảo thân thiện, phù hợp với tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của người chưa thành niên, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp, giữ bí mật cá nhân của người chưa thành niên”. Về thành phần tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, đối với vụ án hôn nhân và gia đình, khoản 2 Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 bổ sung nội dung “…đối với vụ án về hôn nhân và gia đình, Thẩm phán yêu cầu đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia phiên họp; nếu họ vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp”.
2.3. Quy định về thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn:
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định mới 02 điều luật liên quan đến chế định về thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn tại Điều 396 và Điều 397. Trên thực tiễn, việc thụ lý và giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn trước khi áp dụng Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được Tòa án giải quyết trên cơ sở quy định phần chung về thủ tục giải quyết việc dân sự của Bộ luật tố tụng dân sự cũ. Tháo gỡ các vướng mắc qua thực tế thụ lý, giải quyết loại yêu cầu này, Điều 396 và Điều 397 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã quy định cụ thể trình tự, thủ tục thụ lý đơn và mở phiên hòa giải. Khác với quy định của Bộ luật tố tụng dân sự cũ là sau khi thụ lý yêu cầu, Tòa án mở phiên họp để xem xét yêu cầu của đương sự với thành phần phiên họp có sự tham gia của đại diện Viện kiểm sát, Điều 396 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 xác định Tòa án tiến hành hòa giải do Thẩm phán chủ trì và xử lý kết quả hòa giải theo các trường hợp: Đương sự đoàn tụ khi hòa giải thì Thẩm phán ra quyết định đình chỉ giải quyết yêu cầu của họ; đương sự thuận tình ly hôn, thỏa thuận đúng pháp luật và không trái đạo đức về vấn đề con chung, tài sản chung thì Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự; trường hợp hòa giải đoàn tụ không thành và các đương sự không thỏa thuận được một hoặc cả hai vấn đề con chung, tài sản chung thì Tòa án đình chỉ giải quyết việc dân sự và thụ lý vụ án mà không cần lập thủ tục thông báo thụ lý vụ án, phân công Thẩm phán giải quyết vụ án.
II. Một số vướng mắc phát sinh từ thực tiễn thụ lý, giải quyết các vụ việc Hôn nhân và gia đình tại Tòa án;
1. Một số vướng mắc phát sinh trong quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Hôn nhân và gia đình:
1.1. Vướng mắc phát sinh trong quá trình thụ lý vụ án:
Thứ nhất: Điều 28 và Điều 29 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định 07 quan hệ tranh chấp cụ thể và 10 loại yêu cầu cụ thể trong vụ việc hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Trong các quy định này, ngoài khoản 8 Điều 28 và khoản 11 Điều 29 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về việc xác định “các tranh chấp khác, các yêu cầu khác” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì trên thực tiễn việc đương sự gửi đơn yêu cầu Tòa án không công nhận là vợ chồng không nằm trong các quy định trên.
Trước đây, để thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, điểm c mục 3 Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09 tháng 6 năm 2000 xác định “Kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2001 trở đi, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm b khoản 3 của Nghị quyết này, nam và nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn, đều không được pháp luật công nhận là vợ chồng; nếu có yêu cầu ly hôn thì Toà án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Toà án áp dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 để giải quyết”. Hiện nay, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định “ Trong trường hợp không đăng ký kết hôn mà có yêu cầu ly hôn thì Tòa án thụ lý và tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì giải quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này.”
Theo đó, thực tiễn thụ lý đơn “Yêu cầu không công nhận là vợ chồng” của đương sự, Tòa án có hai hình thức chọn quan hệ tranh chấp khác nhau. Một số Tòa án địa phương thì xác định đây là vụ án “Ly hôn,…” theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; một số Tòa án khác lại xác định đây là vụ án “Yêu cầu không công nhận là vợ chồng” theo quy định tại khoản 8 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 “Các tranh chấp khác về hôn nhân và gia đình”.
Điều này làm cho việc thụ lý đơn yêu cầu không công nhận là vợ chồng của đương sự không thống nhất, thậm chí có sự không thống nhất giữa các Tòa án trong cùng một địa phương. Vấn đề đặt ra là Tòa án phải xác định yêu cầu này thuộc loại tranh chấp gì trong tất cả các tranh chấp hôn nhân và gia đình được quy định tại Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bởi lẽ, cả Nghị quyết 35/2000/NQ10 và Khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình đều chỉ xác định đến mức độ “…thì Tòa án thụ lý”, chứ không xác định rõ Tòa án thụ lý vào loại tranh chấp gì; vấn đề này đã được nêu ra trước khi có Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nhưng vẫn không được xử lý. Giải quyết vấn đề vướng mắc này còn đảm bảo cho việc quyết định nghĩa vụ chịu án phí của đương sự được quy định tại Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 29 tháng 12 năm 2016, bởi lẽ Nghị quyết này chỉ quy định án phí đối với vụ án xin ly hôn, không quy định án phí đối với vụ án “Yêu cầu không công nhận là vợ chồng”; đồng thời đảm bảo cho Tòa án nhân dân địa phương thống nhất số liệu đầu vào và đầu ra khi báo cáo thống kê hằng tháng, hằng năm.
Thứ hai, Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định về hình thức, nội dung đơn khởi kiện, trong đó, khoản 4 Điều 189 quy định về nội dung đơn khởi kiện. Trong khi đó, khoản 1 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 chỉ quy định việc yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong trường hợp “đơn khởi kiện không đủ các nội dung quy định tại khoản 4 Điều 189”, vậy trường hợp đơn khởi kiện không đảm bảo các quy định về hình thức đơn kiện tại các khoản 1, 2, 3 Điều 189 thì Thẩm phán xử lý như thế nào?! Bởi theo quy định tại Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về trả lại đơn khởi kiện…thì không có trường hợp nào cho phép Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện khi đơn khởi kiện không đảm bảo quy định tại các khoản 1, 2, 3 Điều 189, mà điều luật này chỉ cho phép Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện khi “người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193” – khoản 2 Điều 193 quy định yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn kiện cho đúng khoản 4 Điều 189. Điều này dẫn đến phương pháp xử lý đơn tùy tiện trên thực tế tại các Tòa án. Có Tòa án trả lại đơn ngay cho người làm đơn khi họ không tuân thủ các điều kiện về hình thức của đơn và hướng dẫn họ sửa lại đơn, nhưng điều này chỉ thuận lợi khi đương sự nộp đơn trực tiếp và họ cầu thị, tiếp thu hướng dẫn của công chức Tòa án. Có nhiều Tòa án lúng túng chọn phương pháp xử lý khi nhận đơn qua bưu điện, không thể yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện bởi đơn khởi kiện có đầy đủ nội dung theo khoản 4 Điều 189; vi phạm của người làm đơn chỉ là không đóng dấu (người khởi kiện là tổ chức, doang nghiệp), hoặc họ dùng chữ ký photo trong đơn khởi kiện hoặc họ ghi sai ngày tháng năm khởi kiện hoặc thủ tục làm hộ đơn khởi kiện chưa đảm bảo...Và đương nhiên, trường hợp này Tòa án cũng không đủ điều kiện để trả đơn khởi kiện cho đương sự. Đây cũng là vấn đề vướng mắc trước khi có Dự thảo Bộ luật tố tụng dân sự, nhiều ý kiến đề nghị luật hóa nội dung “trả đơn khởi kiện trong trường hợp vi phạm điều kiện về hình thức đơn khởi kiện” nhưng chưa được tiếp thu, xem xét.
1.3. Vướng mắc phát sinh trong quá trình thu thập chứng cứ, chứng minh:
Việc bổ sung các nội dung tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã vấp phải nhiều trở ngại trong thực tiễn áp dụng. Trước hết, hiện chưa có hướng dẫn nào để xác định được “trong trường hợp cần thiết” để “Thẩm phán có thể tham khảo ý kiến của cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em về hoàn cảnh gia đình, nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan”, nên trên thực tế đa số các Tòa án đều chọn cách lý giải là “trường hợp này thuộc diện chưa cần thiết”!. Sau nữa, quy định “đối với vụ án hôn nhân và gia đình liên quan đến người chưa thành niên, trước khi mở phiên họp….thì Thẩm phán…..phải thu thập tài liệu, chứng cứ để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp” phát sinh nhiều cách làm tùy tiện. Cách làm thứ nhất là Tòa án yêu cầu đương sự bổ sung tài liệu xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương về hôn nhân, gia đình, trẻ em thì mới chịu thụ lý đơn khởi kiện; cách làm thứ hai là Tòa án trực tiếp xác minh tại các cơ quan trên, nhưng kết quả nhận được là đa số các cơ quan được pháp luật giao thẩm quyền quản lý nhà nước về gia đình, trẻ em tại địa phương đều trả lời “không biết”, “không nắm được”, vì các cặp vợ, chồng không đến đơn vị họ trình báo các việc liên quan đến hôn nhân, bản thân người có trách nhiệm xác nhận cũng không dám xác nhận khi chưa có chứng cứ chính xác; thậm chí có trường hợp họ biết là gia đình đương sự mâu thuẫn nhiều năm rồi, nhưng lại ngại không xác nhận, vì sợ va chạm vì mối quan hệ cá nhân hơn nữa chưa có tài liệu nào lưu trữ tại đơn vị phản ảnh tình trạng hôn nhân của đương sự. Hay nói rõ hơn là hiện nay, đại đa số các cơ quan được giao thẩm quyền quản lý nhà nước về gia đình, trẻ em tại địa phương không thể nắm được thông tin liên quan đến các gia đình về lĩnh vực hôn nhân, bởi một phần Luật Hôn nhân và gia đình chỉ quy định “khuyến khích hòa giải cơ sở” chứ chưa quy định “hòa giải cơ sở trong vụ án hôn nhân và gia đình là bắt buộc” nên đương sự làm đơn gửi thẳng đến Tòa án mà không qua địa phương. Một phần khác là do sự thay đổi về cách ứng xử của các thành viên trong gia đình đối với mâu thuẫn gia đình; đa phần các cặp vợ chồng chọn lựa cách đối xử, ứng xử yên lặng nhưng âm ỉ, không đánh nhau, cải nhau ồn ào theo kiểu “đóng cửa dạy nhau”, đến lúc thấy đã cần thiết thì họ làm đơn gửi đến Tòa án, nên địa phương không nắm được thông tin; quan niệm hiện đại của đa số người đến Tòa án xin ly hôn đều cho rằng những vấn đề liên quan đến vợ chồng thuộc quyền riêng tư của mỗi cá nhân. Do đó, kể từ ngày Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực đến nay, rất nhiều Tòa án địa phương vi phạm quy định này, hoặc có thu thập chứng cứ xác nhận của địa phương nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức độ hình thức là “địa phương xác nhận chữ ký của ông/bà…là đúng hoặc ông/bà …có cư trú tại địa phương và đề nghi cấp có thẩm quyền xem xét…”!
1.4. Vướng mắc phát sinh trong thủ tục hòa giải các vụ án Hôn nhân và gia đình:
Thứ nhất, hiện nay có nhiều cách hiểu và cách làm khi áp dụng khoản 2 Điều 209 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về thành phần phiên họp, phiên hòa giải. Đây là khoản được bổ sung mới so với quy định tại Bộ luật tố tụng dân sự cũ, có liên quan đến khoản 3 Điều 208 đã tra đổi ở phần trên. Cụ thể quy định là: “Trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan tham gia phiên họp; đối với vụ án về hôn nhân và gia đình, Thẩm phán yêu cầu đại diện cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham gia phiên họp; nếu vắng mặt họ thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp”. Theo đó, hiện nay có Tòa án địa phương hiểu là việc mời các cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, trẻ em, Hội liên hiệp Phụ nữ…chỉ khi thuộc “trường hợp cần thiết”, cho nên tốt nhất là họ không mời cơ quan nào tham dự và họ lý giải là trường hợp này “thuộc diện chưa cần thiết!”, bởi lẽ các Tòa án này cho rằng có phát giấy mời các đơn vị đó thì đa phần họ không đến, chỉ tốn chi phí, tốn thời gian, trường hợp có đến dự thì họ cũng chẳng có ý kiến gì, ngồi yên làm người chứng kiến trong suốt phiên họp khiến họ nản và lần sau mời họ không đến nữa! Một số Tòa án địa phương xác định thủ tục mời đại diện các cơ quan quản lý nhà nước địa phương về gia đình, trẻ em, Hội liên hiệp Phụ nữ…là yêu cầu bắt buộc, nhưng còn lúng túng ở chỗ là mời hết cả 3 loại cơ quan này hay chỉ cần 01 loại cơ quan là đủ! Về thực tiễn thực hiện, các Tòa án này cũng cho biết tình trạng có mặt và chất lượng tham dự của các đại biểu này là hình thức, thiếu hiệu quả, chỉ tốn chi phí liên quan. Do vậy, đa phần Thẩm phán chọn phương pháp lập giấy mời lưu hồ sơ để đảm bảo đúng thủ tục; chỉ thực hiện đúng quy định trên đối với những vụ án có mâu thuẫn gay gắt, liên quan đến bạo lực gia đình hoặc được nhân dân, chính quyền địa phương quan tâm.
Thứ hai, hiện nay các Tòa án địa phương đang lúng túng về thủ tục xử lý trường hợp tại phiên hòa giải các đương sự thống nhất đoàn tụ nhưng nguyên đơn không thống nhất rút đơn khởi kiện. Có Tòa án địa phương xử lý theo hướng lập biên bản hòa giải đoàn tụ thành (mẫu tự sáng chế vì bộ mẫu ban hành theo Nghị quyết số 01/2017/NQ – HĐTP ngày 13 tháng 01 năm 2017 không có mẫu “biên bản hòa giải đoàn tụ thành”), sau thời hạn 7 ngày nếu các bên không thay đổi ý kiến thì Tòa án ra quyết định công nhận đoàn tụ thành (mẫu cũng tự sáng chế), quyết định phần án phí mà đương sự phải chịu là 50% mức án phí ly hôn trước khi mở phiên tòa là 150.000 đồng. Có Tòa án địa phương vận dụng quy định tại khoản 3 Điều 397 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (hòa giải việc hôn nhân và gia đình) để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án theo điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, trả lại cho đương sự toàn bộ án phí. Cách làm thứ nhất là phù hợp với bản chất của kết quả hòa giải vụ án dân sự theo nghĩa rộng, nhưng hậu quả để lại là quyền khởi kiện lại của đương sự bị ảnh hưởng; bởi lẽ rõ ràng nếu sau đó nguyên đơn của vụ án trước làm đơn xin ly hôn lại, cùng đương sự, cùng tranh chấp…thì Tòa án xử lý thế nào khi đang tồn tại một Quyết định công nhận đoàn tụ thành, quyết định này đang có hiệu lực pháp luật và đã giải quyết vụ án này; ngay cả quyền nộp đơn khởi kiện lại theo quy định tại khoản 3 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự cũng chỉ ấn định phạm vi “Yêu cầu ly hôn…….mà trước đó Tòa án chưa chấp nhận!”, trong khi trường hợp “Đoàn tụ thành” không thuộc diện “Tòa án chưa chấp nhận”! Cách làm thứ hai thì đảm bảo được quyền khởi kiện lại của đương sự nhưng việc Tòa án đình chỉ giải quyết vụ án theo điểm c khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự (người khởi kiện rút toàn bộ khởi kiện) và trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn là thiếu cơ sở pháp lý và căn cứ thực tiễn. Bởi lẽ nguyên đơn không có đơn xin rút đơn khởi kiện và Nghị quyết 326/2016/NQ – UBTVQH14 và Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 cũng không quy định cụ thể xử lý tiền tạm ứng án phí trong trường hợp này.
Thứ ba, Điều 397 Bộ luật tố tụng dân sư năm 2015 quy định thủ tục hòa giải và công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản sau khi ly hôn đã giải quyết được tính thiếu thực tế của quy định tương ứng về việc hôn nhân và gia đình của Bộ luật tố tụng dân sự cũ, bỡi lẽ theo quy định cũ, thủ tục giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con, chia tài sản khi ly hôn được thực hiện bằng phiên họp, rườm rà về thủ tục, thành phần tham gia, gây khó khăn cho đương sự và Tòa án nên ít được áp dụng. Tuy nhiên, khi áp dụng khoản 4 Điều 397 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về điều kiện đủ để Thẩm phán ra quyết định công nhận thuận tình là hôn thì thực tế gặp phải vướng mắc nhỏ. Điều luật quy định khi các đương sự tự nguyện ly hôn, thỏa thuận được chia tài sản hoặc không chia tài sản chung, việc nuôi con chung, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con và sự thỏa thuận đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ, con thì Thẩm phán ra quyết định công hân thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của đương sự. Đây là cách xử lý như thủ tục công nhận thuận tình ly hôn tại phiên hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình. Nhưng ở phiên hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình thì bắt buộc các đương sự phải thỏa thuận tất cả các vấn đề liên quan đến vụ án, trong đó có án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, án phí cấp dưỡng nuôi con, chia tài sản chung. Như vậy, vấn đề thỏa thuận về lệ phí tại phiên hòa giải việc hôn nhân gia đình theo quy định tại khoản 4 Điều 397 Bộ luật dân sự năm 2015 có được đặt ra là điều kiện cần để xem xét ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận của các đương sự không? Hay nói rõ hơn, khi đã thỏa mãn tất cả các điều kiện quy định tại khoản 4 Điều 397 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nhưng đương sự không thỏa thuân được trách nhiệm chịu lệ phí theo quy định tại khoản 2 Điều 149 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Thẩm phán có ban hành quyết định công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận của các đương sự không?!
III. Một số kiến nghị, đề xuất
Từ những vướng mắc nêu trên và xuất phát từ yêu cầu đảm bảo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 được áp dụng triệt để và hiệu quả trong thực tiễn giải quyết các vụ việc dân sự nói chung, vụ việc hôn nhân và gia đình nói riêng, chúng tôi mạnh dạn kiến nghị, đề xuất một số nội dung sau:
Một là: Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành Nghị quyết hướng dẫn Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, tạo hành lang pháp lý rõ ràng để Tòa án nhân dân địa phương tổ chức tốt công tác thụ lý, giải quyết các vụ việc dân sự, không để xảy ra tình trạng chờ văn bản hướng dẫn, mỗi địa phương làm mỗi kiểu, gây lãng phí thời gian, tiền của và phiền hà cho nhân dân. Trong đó, vấn đề thụ lý yêu cầu không công nhận là vợ chồng trong vụ án hôn nhân và gia đình cần đặt nó trong quan hệ tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn...theo khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; bởi lẽ bản chất và nội hàm của yêu cầu không công nhận là vợ chồng, giải quyết vấn đề con chung, tài sản chung tương tự với nội hàm của quan hệ tranh chấp theo khoản 1 Điều 28 nói trên. Cần hướng dẫn bổ sung quy định: Đơn khởi kiện không đúng hình thức theo quy định tại các khoản 1, 2, 3 Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là một trong những trường hợp yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo Điều 193 và khi đương sự không sửa đổi, bổ sung hình thức đơn khởi kiện theo yêu cầu này thì Tòa án trả đơn khởi kiện theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.
Hai là, đối với quy định về thu thập chứng cứ từ cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương về gia đình, trẻ em và thành phần đại diện của các cơ quan này, đại diện Hội liên hiệp Phụ nữ tại phiên họp giao nộp, công khai, tiếp cận chứng cứ trong vụ án hôn nhân và gia đình, cần sớm được xem xét, hướng dẫn kỹ lưỡng để phù hợp với thực tế. Theo chúng tôi, chỉ nên quy định trước khi mở phiên tòa xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình mà nguyên nhân dẫn đến ly hôn phát sinh từ tình trạng bạo lực gia đình, xâm hại sức khỏe, tinh thần trẻ em thì Thẩm phán phải thu thập chứng cứ về nguyên nhân phát sinh tranh chấp và nguyện vọng của vợ, chồng, con có liên quan đến vụ án. Tương tự như vậy, chỉ khi tiến hành hòa giải vụ án hôn nhân và gia đình có nguyên nhân xin ly hôn phát sinh từ tình trạng bạo lực gia đình thì Tòa án mời đại diện cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương về gia đình, trẻ em, Hội liên hiệp Phụ nữ tham gia phiên họp công khai, tiếp cận chứng cứ và hòa giải; việc mời đại diện một hay hai hay cả ba cơ quan trên là do Thẩm phán xem xét, quyết định; họ đã được mời nhưng không có mặt thì Tòa án vẫn tiến hành phiên họp, phiên hòa giải. Bên cạnh đó, Tòa án nhân dân tối cao cần kiến nghị cơ quan thẩm quyền trong việc nâng cao chất lượng công tác quản lý hành chính nhà nước tại địa phương trong lĩnh vực gia đình, trẻ em, trong đó có việc nâng cao tinh thần, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương trong việc hòa giải các tranh chấp liên quan đến hôn nhân và gia đình; xác định trách nhiệm của các cơ quan này khi thực thi quy định của Bộ luật tố tụng dân sự 2015 trong việc cung cấp thông tin, chứng cứ cho Tòa án và tham dự các phiên họp, phiên hòa giải các vụ án hôn nhân và gia đình tại Tòa án.
Ba là, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao sớm có hướng dẫn thủ tục xử lý việc các đương sự đoàn tụ tại phiên hòa giải và ngay cả tại phiên tòa xét xử vụ án ly hôn. Theo chúng tôi, việc các đương sự thống nhất đoàn tụ tại phiên hòa giải hay tại phiên tòa xét xử vụ án hôn nhân và gia đình đều phản ánh một thực tế là quyền và lợi ích hợp pháp của các bên không còn cơ sở để cho là bị xâm phạm, vụ án không còn tranh chấp; cho nên khi các đương sự thỏa thuận đoàn tụ tại phiên hòa giải hay tại phiên tòa xét xử vụ án ly hôn, Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử căn cứ vào nội dung tự nguyện yêu cầu đoàn tụ của các bên tại biên bản hòa giải hoặc tại phiên tòa để đình chỉ giải quyết vụ án theo Điều 186, điểm b khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 (Chưa đủ điều kiện khởi kiện theo quy định của pháp luật). Bởi xử lý tình huống theo hướng này, vừa đảm bảo quyền khởi kiện lại của đương sự (điểm c khoản 3 Điều 192) vừa phù hợp với bản chất, nguyện vọng của đương sự và trả lại tiền tạm ứng án phí cho nguyên đơn theo đúng khoản 3 Điều 218 Bộ luật tố tụng dân sự.
Bốn là, khi hướng dẫn thủ tục giải quyết các việc dân sự tại Tòa án, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần quan tâm đến điều kiện thỏa thuận về lệ phí giải quyết việc hôn nhân và gia đình khi các đương sự thuận tình ly hôn, thỏa thuận được việc nuôi con chung, chia tài sản chung tại phiên hòa giải do Tòa án thực hiện. Theo chúng tôi, vì Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định thủ tục giải quyết việc giải quyết yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, thỏa thuận nuôi con chung, chia tài sản chung chỉ dừng lại tại phiên hòa giải; hơn nữa, quy định về nghĩa vụ lệ phí theo Điều 149 đã rõ ràng, cho nên, cần hướng dẫn theo hướng giao quyền quyết định việc chịu lệ phí việc hôn nhân và gia đình cho Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải khi ban hành quyết định công nhận thuận tình ly hôn và thỏa thuận của các đương sự nếu đương sự không thỏa thuận được phần lệ phí liên quan tại phiên hòa giải.
Tìm hiểu những điểm mới và xác định những vướng mắc, bất cập tại các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 là nhiệm vụ và phương pháp học tập, nghiên cứu chuyên môn của cán bộ, công chức có chức danh tư pháp. Qua bài viết này, chúng tôi mong nhận được dựa quan tâm trao đổi của đồng nghiệp và quý độc giả để có cơ hội học tập, nghiên cứu, nâng cao năng lực chuyên môn của mình, góp phần thực hiện tốt công tác giải quyết, xét xử các loại án và công tác nghiên cứu, xây dựng pháp luật.
Nguyễn Văn Dũng